Khi tôi giành thắng lợi trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ, sau đó là chiến thắng trong cuộc bầu cử, đều với tỷ lệ khá chênh lệch, tôi tin rằng mình đã chứng minh được quan điểm của mình. Tuy nhiên, mọi sự vẫn luẩn quẩn vì bản thân ngành báo chí truyền thông cũng thích cái vòng luẩn quẩn đó. Chúng tôi chuyển đến một ngôi nhà rộng hơn, có xe ô tô và tài xế riêng, có tủ lạnh, có ti vi.
chưa nói đến mấy anh chàng mật vụ trong phòng này. Học thuyết Monroe phiên bản thời Roosevelt - cho rằng chúng ta có thể ưu tiên loại bỏ chinh phủ nào chúng ta không thích - giờ trở thành học thuyết Bush với phạm vi áp dụng mở rộng từ Tây bán cầu ra toàn thế giới. Khi tôi nhìn các đồng nhiệm thượng nghị sỹ của tôi - đa phần là người Cộng hòa - đang bám lấy từng lời của Tổng thống, tôi nhớ đến vị thế độc tôn nguy hiểm mà quyền lực đem lại, và tôi thực sự đánh giá cao sự sáng suốt của những người sáng lập đất nước, họ đã xây dựng một hệ thống cho phép kiểm soát quyền lực đó.
Tuy nhiên, thường thi tìm ra sự cân bằng giữa các giá trị đôi chọi nhau khó hơn nhiều. Đó là một không gian giản dị, sáng sủa với những bộ bàn ghế gỗ màu vàng, có lẽ đủ chỗ cho khoảng một trăm khách ngồi. Năm mươi bảy phần trăm người lao động Mỹ không có được may mắn đó.
Giờ đây sự hỗn loạn đã diễn ra ngay ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta. Phe bảo thủ cho rằng nếu đảng Dân chủ đã áp dụng quyền cản trở đối với mười người này thì chẳng có gì ngăn cản họ làm điều tương tự với các ứng viên ở tòa tối cao cả. Nhưng khi quỳ dưới cây thánh giá ở khu Nam Chicago, tôi cảm thấy tinh thần của Chúa đang vẫy gọi tôi.
Nhưng thành công của họ cuối cùng cho thấy xã hội đang khao khát sản phẩm mà họ cung cấp, một sự khao khát vượt lên mọi vấn đề hay lý lẽ. tục lệ và địa vị kiểu bộ lạc, nhưng nếu cho rằng đó là toàn bộ con người Mỹ thì thật sai lầm. Nó thể hiện khi chúng ta dám tin rằng một đất nước đang bị chia rẽ bởi mâu thuẫn sẽ tìm lại được tính cộng đồng cho dù mọi thứ đều chứng tỏ điều ngược lại, rằng chúng ta luôn nắm được - và do đó có trách nhiệm - vận mệnh của mình cho dù chúng ta có thể gặp thất bại, mất việc làm, bị đau ốm hay có tuổi thơ gian khó.
Lần đầu tiên tôi gặp John Kerry là sau kỳ bầu cử sơ bộ ở Illinois khi tôi đề cập tới những người vận động gây quỹ của ông và cùng ông đến dự một buổi vận động để nói về tầm quan trọng của các chương trình dạy nghề. CUỐN SÁCH NÀY hình thành trực tiếp từ nhưng lần nói chuyện trên đường vận động đó. Trước khi tiến tới một kế hoạch kiểu như tôi vừa trình bày, chúng ta còn cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề chi tiết: cụ thể chúng ta phải đảm bảo việc xây dựng một quỹ bảo hiểm mới ở cấp bang mà không làm cho các công ty chấm dứt chương trình bảo hiểm hiện họ đang cung cấp cho nhân viên.
Nhưng bất kể tôi gặp hai người hay năm mươi người, bất kể tôi đang ở trong một ngôi nhà râm mát, trang nghiêm ở bờ biển Bắc, một căn, hộ trên cao không có thang máy ở vùng phía Tây hay một trang trại ngoại Ô Bloomington, bất kể mọi người tỏ ra thân thiện, bàng quan hay đôi khi có thái độ thù địch, tôi cố gắng hết sức để im lặng, nghe những điều họ nói. Tôi có thể sẽ nhận được những bức thư, những cuộc điện thoại giận dữ. Họ cho rằng không nên tuyên bố một người bị phá sản chỉ vì người đó bị ốm.
Dĩ nhiên tôi cũng bị thành kiến. ĐÔI KHI TÔI tự hỏi mọi việc sẽ thế nào nếu thực sự có những quảng cáo đả kích kia. Nhưng các đồng minh - và cả kẻ thù của chúng ta - thì hiển nhiên không biết những câu trả lời này là gì.
cảm thấy hơi khó chịu. So với ông bà chúng ta thì chúng ta rộng lượng hơn với tình dục trước hôn nhân, dễ chung sống hơn và cũng dễ sống một mình hơn. Cả hai đều làm việc chăm chỉ: tôi hành nghề luật ở một công ty nhỏ chuyên về quyền công dân và bắt đầu giảng dạy ở Trường Luật Chicago.
Jakarta trở thành một đô thị lớn với khoảng chín triệu dân, với những tòa nhà chọc trời, nhà ổ chuột, khói bụi và giao thông như ác mộng. Con người sáng tạo ra ngành mới, nhu cầu mới, mong muốn mới. Đó không chỉ đơn giản là những khác biệt giữa lý tưởng của chúng ta về một đất nước chúng ta thực tế đang phải chứng kiến hàng ngày.